I. MỞ ĐẦU: KHÁI NIỆM VỀ DỰ TOÁN
Dự toán là gì?
Dự toán, đơn giản chỉ là các bảng tính chi phí cần thiết để xây
dựng công trình hoặc hạng mục công trình.
VD: Một chủ đầu tư muốn tính dự toán một sân bê tông. Họ sẽ đưa cho
bạn bản vẽ (hoặc các mô tả cần thiết). Trong ví dụ này, sân dài 500m, rộng
300m, gồm các lớp: Đệm cát đầm chặt dày 600, BT lót đá 4x6 M100 dày 100, BT nền
đá 1x2 M200 cắt joint 6x6m. Bảng dự toán như sau:
STT
|
TÊN CÔNG VIỆC ĐƠN
|
ĐƠN VỊ
|
KHỐI LƯỢNG
|
ĐƠN GIÁ
|
THÀNH TIỀN
|
1
|
Đắp cát đầm chặt
300x500x0,6
|
M3
|
9.000,0
|
150.000
|
1.350.000.000
|
2
|
BT lót đá 4x6 M100
300x500x0,1
|
M3
|
1.500,0
|
600.000
|
900.000.000
|
3
|
BT nền đá 1x2 M200
300x500x0.2
|
M3
|
3.000,0
|
1.200.000
|
3.600.000.000
|
4
|
Cắt joint 6m x 6m
300x83+500x49
|
md
|
49.400,0
|
12.000
|
592.800.000
|
Tổng cộng
|
6.442.800.000
|
Bạn thấy rằng về hình thức, dự toán cũng tương tự một bảng tính
tiền quán ăn, bạn sẽ tính khối lượng cho từng công việc một, áp giá tương ứng
và cộng tổng lại là xong. Trường hợp các bạn làm dự toán những công trình lớn
hơn, phức tạp hơn (tòa nhà chung cư, cây cầu, nhà máy ...) cũng tương tự, tất
nhiên là số lượng công việc và cách tính toán sẽ nhiều và rắc rối hơn.
Anh em làm dự toán
đều đã biết lập 1 dự toán công trình trình nhà nước rất ư phức tạp… mình không
trình bày lại nữa. Về lập dự toán nhà nước có thể đọc thêm bài này: Hỏi về các p/p lập dự toán nhà nước.
Tại sao phải rắc rối như vậy, tại
sao không làm theo kiểu lum-sum cho nhanh ?
Đúng là làm dự toán và quản lý theo kiểu nước ngoài (lump-sum) như
ở trong ví dụ ở Phần I. rất nhanh, chỉ khối lượng x đơn giá là xong.
Thực tế thì các công trình tư nhân và nước ngoài hiện nay cũng thường tính theo
cách này cho đơn giản và dễ quản lý.
Nhưng với các công trình của nhà nước (vốn ngân sách) hoặc “có yếu
tố nhà nước”, thì chủ đầu tư (và có thể sau này được thụ hưởng) chỉ là người
quản lý vốn của nhà nước, vì vậy nhà nước phải ra rất nhiều quy định để kiểm
soát tránh thất thoát (nhưng thực tế vẫn thất thoát như thường !!!).
Thực ra năm 2007 nghị định 99 và thông tư 05 đã có quy định về việc
nhà nước không quản lý định mức và đơn giá nữa (định mức đơn giá giờ chỉ là công bố chứ không phải ban hành như trước nữa), CĐT là người
quyết định và chịu trách nhiệm, kỹ sư định giá sẽ là người tư vấn giúp CĐT về
định mức và đơn giá ... Nhưng trong thực tế thì cách quản lý "nguyễn y
vân", đơn giản là vì những người thực hiện thà cứ làm đúng theo định mức
đơn giá như cũ, nếu có gì sai sót thì đó là do định mức đơn giá sai, chứ nếu tự
mình quyết định nếu xảy ra cái gì thì mình lại phải chịu trách nhiệm.
VD: Một vài thay đổi về hình thức định mức, đơn giá sau năm 2007:
2005: Ban hành định mức
24 (phần xây dựng), định mức 33 (phần lắp đặt)
2007: Bãi bỏ định mức 24, định mức 33. Công bố định mức 1776 (phần
xây dựng), 1777 (phần lắp đặt) nhưng nội dung y chang ĐM 24 và ĐM 33 (tức là
chỉ thay hình thức ban hành bằng công bố mà thôi)
Ở thành phố HCM, năm 2008 công bố đơn giá 1297, 1298, 1299 thay thế
cho bộ đơn giá xây dựng (103), lắp đặt (104) và khảo sát đã ban hành năm 2006
nhưng do nội dung không có gì thay đổi nên vẫn sử dụng lại các cuốn đơn giá.
Ở các tỉnh khác tương tự. Một số tỉnh "siêng" tính lại và
công bố đơn giá mới, các tỉnh khác làm giống Tp. HCM, bình mới rượu cũ cho
nhanh.
Tóm lại, về đơn giá định mức và cách quản lý của nhà nước, các bạn
chỉ cần nhớ 2 điểm:
1. Cách quản lý của chúng ta hiện nay vẫn theo nguyên tắc của thời
bao cấp (kinh tế kế hoạch, nhà nước kiểm soát mọi chi phí của công trình thông
qua các bộ định mức, đơn giá và các văn bản khác)
2. Về nguyên tắc sau NĐ 99 và TT 05 năm 2007 thì nhà nước đã không
quản lý nữa. Nhưng mọi người vẫn làm theo đúng kiểu cũ cho an toàn, dễ giải
trình.
I.2. Dự toán nhà dân hay dự toán công
trình nước ngoài (gọi ngắn gọn là dự toán thực tế):
Đơn giản hơn rất nhiều:
- Kết cấu 1 dự toán nhà dân (hình dưới):
I. Chi phí vật liệu: …………………
(đ)
II. Chi phí nhân công (bao gồm chi phí ván khuôn, giàn giáo, máy móc
thiết bị)….. (đ)
III. Chi phí chuẩn bị: ……………… (đ) (tính thực tế, hoặc tính gọn bao
nhiêu tiền)
IV. Chi phí quản lý: ……………….. (đ) (tính thực tế, hoặc tính gọn bao
nhiêu tiền)
Cộng: (I+II+III+IV) = …….………..(đ)
- Kết cấu 1 dự toán công trình nước ngoài (hình dưới):
I. Chi phí xây dựng: [Khối lượng] x [Đơn giá] = Thành tiền (đ)
II. Chi phí gián tiếp: … (đ) (tính thực tế, hoặc tính gọn bao nhiêu
tiền)
Chi phí gián tiếp [= quản lý + chi phí khác (nếu có)], các chi phí
này có thể tính thực tế, hoặc tính gọn bao nhiêu tiền, hoặc tính theo tỉ lệ %
chi phí trực tiếp (chi phí khác với công trình nhà nước bắt buộc tính theo tỉ
lệ chi phí trực tiếp):
Cộng: (I+II) = …….………..(đ)
Nói chung, dự toán nhà nước phức tạp hơn dự toán thực tế rất nhiều.
Dự toán thực tế (với CĐT là tư nhân hoặc nước ngoài) chỉ cần xong
khối lượng là xong, còn đơn giá là đơn giá thực tế thị trường. CĐT cũng chỉ cần
đơn giá tương đối để kiểm soát, còn giá chính xác được xác định thông qua đấu
thầu. Nhưng đối với công trình nhà nước thì tất cả phải tuân thủ quy định nhà
nước. Phê duyệt phải qua rất nhiều cấp (tư vấn thẩm tra, CĐT, các cơ quan quản
lý khác ...) và chỉ cần sai chút xíu là phải chỉnh sửa rất mệt mỏi.
II. MỐT SỐ ĐIỂM KHÁC NHAU CẦN LUU Ý GIỮA DỰ TOÁN NHÀ NƯỚC VÀ DỰ TOÁN
NHÀ DÂN
II.1. Khác nhau khi tính khối
lượng
Thường càng bóc tách thành nhiều công tác thì dự toán càng chính xác. Nhưng ta cũng có thể cân nhắc để gộp những công việc liên quan cho thuận tiện tính toán và kiểm soát hơn.
Thường càng bóc tách thành nhiều công tác thì dự toán càng chính xác. Nhưng ta cũng có thể cân nhắc để gộp những công việc liên quan cho thuận tiện tính toán và kiểm soát hơn.
Lấy ví dụ dự toán sân bê tông ở phần I. Ta có thể gộp công tác bê tông nền và cắt joint lại. Đương nhiên, lúc này đơn giá sẽ không còn là 1.200.000đ/m3 nữa mà sẽ phải cộng thêm chi phí cắt joint. Thậm chí có thể gộp cả 4 công việc lại và tính trên cơ sở m2 sân hoàn thiện (trường hợp này là 6.442.800.000/15.000=429.520đ/m2)
- Với các công trình nước ngoài hoặc tư nhân, họ rất hay gộp các công việc lại cho gọn. Chẳng hạn công tác cọc khoan nhồi D1000: Nếu bóc tách sẽ có rất nhiều công việc như khoan cọc, hốt bùn, chở đi, bentonite, cốt thép, bê tông, vận chuyển máy ... nhưng người ta có thể gộp chung và dự toán theo md cọc (tất nhiên phải dựa trên cơ sở số liệu từ thực tế để tính ra đơn giá tổng hợp là bao nhiêu tiền/md cọc).
- Nhưng với các công trình có yếu tố nhà nước thì bắt buộc phải bóc tách chi tiết để áp đúng đơn giá theo quy định của nhà nước.
- Nhà dân là trường hợp đặt biệt vì dự toán bóc tách chi tiết là quá phức tạp với cả chủ nhà và nhà thầu nên thường tính theo m2 xây dựng, dù rằng cách đó không được chính xác và dễ nảy sinh những tranh cãi khi thực hiện.
Tóm lại, đối với công trình nhà nước thì bạn phải tuân thủ cách chia tách
theo bộ ĐG ĐM, nhưng với công trình tư nhân và nước ngoài thường người ta không
chia tách quá chi tiết như vậy mà gộp những công tác đơn giá không khác biệt
nhiều lắm cho dự toán đỡ dài dòng. VD: ĐG nhà nước tách BT cột, dầm, sàn, cầu
thang, lanh tô nhưng với dự toán thực tế, họ có thể gộp chung tất cả khối lượng
BT toàn công trình tính 1 đơn giá cho giản tiện và dễ kiểm soát (tất nhiên, đơn
giá sẽ là đơn giá trung bình).
II.2. Khác nhau về đơn vị
Đơn giá nhà nước có nhiều công việc có đơn vị rất “buồn cười”: Ván
khuôn đơn vị là 100m2 (tại sao không là m2 hay 1000m2), đào đắp đất bằng máy
đơn vị là 100m3, lợp mái tôn đơn vị cũng là 100m2, đóng cừ tràm, lắp đường ống
nước đơn vị là 100md…
Với những công trinh nhà dân hay nước ngoài thì ván khuôn đơn vị thường
là m2, đào đắp đất đơn vị là m3, lợp mái tôn đơn vị m2, lắp đường ống nước đơn
vị là md…
Khi tính khối lượng bạn phải nhớ tính cho phù hợp với đơn vị. Chẳng
hạn, ván khuôn thường tính ra m2, sau đó phải chia cho 100 để được đơn vị là
(100m2)... Những người mới làm dự toán hay bị sai ở chỗ này, làm giá trị dự
toán tăng vọt và thường loay hoay không biết tại sao để điều chỉnh cho đúng.
II.3. Về cách áp giá
Sau khi tính khối lượng sẽ đến công đoạn áp giá. Sau đây là 1 số
khác biệt cần lưu ý giữa áp giá theo kiểu dự toán nhà nước và dự toán nhà dân:
Dự toán công trình có yếu tố nhà nước: Áp giá theo đơn giá nhà nước.
Dự toán tư nhân hoặc nước ngoài: Áp giá thực tế. Tuyệt đối không
được áp giá theo kiểu nhà nước, có thể bạn sẽ rớt từ vòng gửi xe vì dự toán nhà
nước vô cùng lằng nhằng và rắc rối, họ sẽ không đủ thời gian để tìm hiểu đâu.
Ngoài ra, bạn có thể cân nhắc gộp những công việc liên quan lại cho
dự toán ngắn gọn và dễ theo dõi hơn. Ví dụ công tác bê tông, dự toán tư nhân
hoặc nước ngoài thường bao gồm cả ván khuôn vì vậy khi báo giá thì ta phải báo
theo đơn giá đã bao gồm cả công gia công và lắp dựng, tháo dỡ ván khuôn.
Kinh nghiệm khi báo giá các công trình tư nhân hoặc nước ngoài,
càng ngắn gọn và dễ hiểu càng dễ trúng thầu. Ngược lại, công trình nhà nước thì
phải in thật hoành tráng, nhiều bảng biểu, cataloge ... thì mới là ngon (nhưng
thực ra bên trong chẳng có gì)
II.4. Về phân loại vật tư/thiết bị
xây dựng.
Với công trình tư nhân thì tên gọi vật tư hay thiết bị cũng chẳng
ảnh hưởng gì đến giá thành xây dựng.
Nhưng với công trình nhà nước thì hơi khác. Do thiết kế phí và các
chi phí tư vấn được tính theo tỷ lệ % so với chi phí xây lắp (thiết bị thì
không được tính), nên các công ty tư vấn thường có xu hướng đưa các loại lẽ ra
là thiết bị vào thành vật liệu để thiết kế phí và CPTV cao lên.
Để hạn chế tình trạng này, Bộ Xây dựng đã phải ra văn bản … để phân
loại cái nào là thiết bị, cái nào là vật liệu.
II.5. Về cước vận chuyển:
Công trình nhà nước thường phải tính cước vận chuyển vật liệu tới
chân công trình theo các qui định của nhà nước, công trình tư nhân hay nước
ngoài thì chỉ cần lấy theo giá trị trường, báo giá của nhà cung cấp.
II.6. Về cách tính cách khỏan mục chi phí gián
tiếp khác (chi phí chung, thu nhập chịu thuế, lán trại)
Các công trình nhà nước thường áp dụng một tỷ lệ cứng nhắc cho các
chi phí gián tiếp, ví dụ lán trại là 1%, chi phí chung (quản lý) là 6,5% và thu
nhập chịu thuế tính trước (lợi nhuận) là 5,5% [với công trình dân dụng, loại
công trình khác thì tỷ lệ sẽ khác]
Việc này sẽ dẫn đến tình trạng là công việc có giá trị vật tư cao
thì các chi phí gián tiếp này cao ngất. Chẳng hạn cùng là lắp bồn cầu, nhưng
lắp loại 2tr thì CP gián tiếp chỉ vài trăm ngàn, nhưng lắp loại 20tr thì C/p gián
tiếp là vài triệu mà tính chất công việc không khác nhau nhiều.
Các công ty tư nhân thường tách chi phí chuẩn bị ra thành bảng
riêng. Việc này sẽ giúp bảng tính toán sát với thực tế nhất. Đồng thời, CĐT
cũng dễ dàng kiểm soát được công việc của nhà thầu.... Mỗi dạng công trình, mỗi
chủ đầu tư sẽ có những bảng tính CPCB khác nhau.
Còn rất nhiều những khác biệt râu ria khác, trên đây chỉ là tổng
hợp một số khác biệt chính về cách lập dự toán nhà nước so với nhà dân và công
trình nước ngoài để anh em tham khảo./.
* * *
[sưu tầm, biên soạn]